— từ 1 Nhà Ảo thuật và 1 nhà Đạo đức trong Thiết kế (Design Ethicist) làm việc cho Google
Click tới phần bạn quan tâm hoặc đọc lần lượt theo thứ tự:
“Lừa người khác thì dễ hơn là thuyết phục họ rằng họ đã bị lừa" -Khuyết danh.
Tôi là một chuyên gia về cách mà công nghệ khống chế những điểm dễ tổn thương trong tâm lý con người. Chính vì thế, tôi đã làm việc cho Google trong 3 năm với vị trí nhà Đạo đức trong Thiết kế (Design Ethecist); đảm nhiệm việc nghiên cứu thiết kế những sản phẩm theo một cách có thể bảo vệ tâm trí của hàng triệu người khỏi bị đánh cắp.
Khi sử dụng công nghệ, chúng ta thường chỉ tập trung (một cách lạc quan) vào những điều chúng mang lại. Nhưng tôi muốn chỉ cho bạn thấy phần ngược lại của vấn đề.
Công nghệ khai thác điểm yếu nào trong tâm trí của chúng ta?
Tôi đã học cách nghĩ như thế này khi tôi là một nhà ảo thuật. Những nhà ảo thuật bắt đầu bằng việc tìm ra những điểm mù, những đường biên, những điểm dễ thương tổn và những giới hạn trong nhận thức của con người, để rồi nhà ảo thuật có thể ảnh hưởng lên cách người ta làm điều gì đó mà họ thậm chí không nhận ra.

Và đó chính xác là cách những nhà thiết kế sản phẩm đang làm với tâm trí của chúng ta. Họ chơi đùa với những lỗ hổng tâm lý của bạn (ý thức và không ý thức) trong cuộc chạy đua đoạt lấy sự chú ý của bạn.
Tôi muốn cho bạn thấy cách họ làm điều đó.
Mánh cướp #1: Nếu bạn kiểm soát menu, bạn được kiểm soát những lựa chọn của mình

Văn hoá Tây Phương được xây dựng chung quanh những lý tưởng về lựa chọn cá nhân và tự do. Hàng triệu người chúng ta đấu tranh quyết liệt cho quyền được “tự do" lựa chọn, trong khi chúng ta lờ đi rằng những lựa chọn đó vốn bị thao túng từ trước bởi những menu mà ngay từ đầu chúng ta không được chọn.
Đó chính xác là cách làm của những nhà ảo thuật. Họ cho người ta ảo tưởng về lựa chọn tự do, trong khi thiết kế những menu mà họ sẽ luôn hưởng lợi, cho dù bạn chọn gì.
Khi người dùng được đưa ra một menu những lựa chọn, họ hiếm khi hỏi lại:
“Có gì không có trên menu này?”
Tại sao tôi chỉ có những lựa chọn này mà không phải những lựa chọn khác nữa?
“Tôi có biết mục tiêu của người đưa ra menu này là gì không?
“Menu này có đang đáp ứng nhu cầu ban đầu của tôi, hay thực ra chỉ là sự đánh lạc hướng để làm lợi cho ai khác?
Ví dụ như, hãy tưởng tượng bạn đi ra ngoài chơi với bạn bè vào 1 tối thứ ba và đang hào hứng muốn tiếp tục cuộc trò chuyện. Bạn mở Yelp ra để xem những gợi ý gần đó và thấy một danh sách các quán bar. Nhóm bạn chuyển sang cắm mặt xuống điện thoại để so sánh các quán bars. Các bạn xem xét kỹ lưỡng ảnh của từng quán, rồi so sánh các loại cocktails ở đó. Vậy những lựa chọn này có còn liên quan đến khao khát ban đầu của nhóm hay không?
Đây không phải là việc các quán bars không phải lựa chọn tốt, mà là chuyện Yelp đã thay thế câu hỏi ban đầu của nhóm (“chúng ta có thể đi đâu để tiếp tục nói chuyện?” với một câu hỏi khác (“quán nào thì có ảnh những ly cocktails đẹp?) chỉ bằng cách nhào nặn menu của họ.
Hơn thế, nhóm bạn sa vào ảo tưởng rằng menu của Yelp đại diện cho loạt lựa chọn đầy đủ về nơi họ có thể đi. Trong khi nhìn xuống điện thoại của mình, họ không thấy công viên ngay bên kia đường với một ban nhạc đang chơi nhạc sống. Họ bỏ mất một triển lãm dạng pop-up từ phía bên kia đường đang phục vụ cả bánh kếp và cà phê. Không cái nào xuất hiện trong menu của Yelp cả.

Công nghệ càng cho ta nhiều lựa chọn trong hầu hết các mặt của đời sống (thông tin, sự kiện, nơi để đến, bạn bè, hẹn hò, công việc) - chúng ta càng cho rằng chúng luôn đưa ra menu hữu dụng nhất. Đúng chứ?
Menu “mạnh mẽ nhất” hoàn toàn khác với Menu có nhiều lựa chọn nhất. Nhưng khi ta mù quáng đầu hàng trước những menu mà ta được đưa, ta dễ dàng quên mất sự khác biệt giữa những việc như:
“Ai có thời gian đi chơi tối nay?” trở thành một menu những người ta nhắn tin gần đây (để ta có thể rủ họ)
“Việc gì đang diễn ra trên thế giới?” trở thành một menu hàng loạt các câu chuyện trên Bảng tin (newsfeed).
“Ai đang độc thân để có thể hẹn hò?” trở thành một menu các gương mặt để ta gạt trên Tinder (thay vì tham gia các sự kiện với bạn bè, những chuyến phiêu lưu...)
“Tôi phải trả lời cho email này" trở thành menu các phím để gõ câu trả lời (thay vì những cách giao tiếp hiệu quả khác giữa người với người)

Khi ta thức dậy vào buổi sáng và nhặt điện thoại lên xem một loạt những thông báo - nó tạo ra trải nghiệm “thức dậy vào buổi sáng" xung quanh một menu của “tất cả mọi thứ tôi đã bỏ lỡ kể từ hôm qua".

Bằng cách nhào nặn ra những menu để ta chọn, công nghệ đánh cắp cách ta nhận thức về những lựa chọn của mình và thay thế chúng bằng những lựa chọn mới. Nhưng nếu chúng ta càng chú ý hơn vào những lựa chọn được đưa ra, chúng ta sẽ càng nhận thấy rằng rút cục thì chúng không phù hợp với nhu cầu thực của mình.
Mánh cướp # 2: Đặt một cái Máy Đánh Bạc vào túi của bạn
Một người trung bình kiểm tra điện thoại 150 lần/ngày. Tại sao chúng ta làm điều này? Chúng ta có đang có 150 lựa chọn có ý thức hay không?
Một nguyên nhân lớn ở đây chính là yếu tố tâm lý số 1 trong các máy đánh bạc: Những biến phần thưởng gián đoạn (intermittent variable rewards)
Nếu muốn tối đa tính gây nghiện, tất cả những gì các nhà thiết kế công nghệ cần làm là liên kết một hành động của người dùng (giống như kéo cần gạt) với một biến phần thưởng. Bạn kéo một cần gạt và ngay lập tức nhận một phần thường lôi cuốn hoặc không gì cả. Tính gây nghiện được nâng tối đa khi tỷ lệ của các kết quả này biến đổi liên tục.
Hiệu ứng này có thực sự tác động lên con người? Có! Máy đánh bạc kiếm được nhiều tiền ở Mỹ hơn bóng chày, phim ảnh và các công viên giải trí gộp lại. So với những loại hình đánh bạc khác, người ta “mê mẩn một cách có vấn đề" với máy đánh bạc nhanh gấp 3-4 lần , theo lời Giáo sư Đại học New York Natasha Dow Schull, tác giả cuốn “Nghiện ngập bởi Thiết kế" (Addiction by Design)
Thật không may - vài tỷ người đang mang một chiếc máy đánh bạc ngay trong túi:
Khi ta móc điện thoại ra khỏi túi, ta đang đánh bạc xem thông báo nào sẽ hiện ra.
Khi ra kéo email xuống để xem, ta đang đánh bạc xem email mới nào mình nhận được.
Khi ta vuốt màn hình để cuộn bảng tin Instagram, ta đang đánh bạc xem bức ảnh nào sẽ hiện ra tiếp theo.
Khi ta quẹt trái/phải trên các ứng dụng hẹn hò như Tinder, ta đang đánh bạc xem liệu ta có được ghép cặp.
Khi ta nhấn vào những con số thông báo màu đỏ, ta đang đánh bạc xem phía dưới sẽ có gì.

Những ứng dụng và websites rải đầy những biến phần thưởng gián đoạn trên khắp các sản phẩm của họ bởi nó rất tốt cho việc kinh doanh.
Những trong nhiều trường hợp khác, những cái máy đánh bạc chỉ vô tình xuất hiện. Ví dụ như, không có tập đoàn ác độc nào đằng sau tất cả những email đã cố tình biến chúng thành cái máy đánh bạc. Không ai kiếm được lợi nhuận từ hàng triệu người xem email và không có gì ở đó. Không có nhà thiết kế nào ở Apple lẫn Google lại muốn chiếc điện thoại của bạn hoạt động như cái máy đánh bạc. Vấn đề này chỉ tình cờ xảy ra.
Nhưng giờ thì các công ty như Apple hay Google có trách nhiệm phải giảm thiểu những tác động này bằng cách chuyển đổi các biến phần thưởng gián đoạn thành những thứ ít gây nghiện và dễ dự đoán hơn với thiết kế tốt hơn. Ví dụ, họ có thể trao cho người dùng quyền cài đặt các mốc thời gian có thể dự đoán trong ngày hoặc trong tuần để kiểm tra các ứng dụng “máy đánh bạc", và theo cho điều chỉnh để những tin nhắn thông báo được đưa đến khớp với khoảng thời gian này.
Mánh cướp #3: Sợ bỏ lỡ điều gì quan trọng (Fear of Missing Something Important-FOMSI)
Một cách khác mà các ứng dụng và website đang đánh cắp tâm trí của chúng ta là tạo ra nỗi sợ “1% khả năng bạn đang bỏ lỡ thứ gì đó quan trọng.”
Nếu tôi thuyết phục bạn rằng tôi là một cầu nối đến tất cả những điều quan trọng: những tin nhắn, tình bạn, cơ hội tình dục tiềm năng - thì khó để bạn có thể tắt tôi đi, hủy đăng ký hoặc xóa tài khoản - bởi vì (aha, tôi thắng) bạn có thể bỏ lỡ điều gì đó quan trọng:
Điều này giữ ta tiếp tục đăng ký các bản tin ngay cả sau khi chúng không đưa đến những lợi ích nào (“Nhỡ tôi bỏ lỡ một thông báo trong tương lai?”)
Điều này giữ ta tiếp tục “kết bạn" với những người ta không còn nói chuyện trong nhiều thập kỷ ( “Nhỡ tôi bỏ lỡ điều gì quan trọng từ họ?”)
Điều này khiến ta không ngừng vuốt qua các khuôn mặt trên các ứng dụng hẹn hò, ngay cả khi ta thậm chí đã không gặp gỡ với bất cứ ai trong một thời gian (“Sẽ thế nào nếu tôi bỏ lỡ một người mình thích?")
Điều này giữ cho ta tiếp tục sử dụng mạng xã hội (“Nhỡ tôi bỏ lỡ tin tức quan trọng đó hay trào lưu mà ai cũng biết?”)
Nếu ta nhìn sâu vào nỗi sợ này, ta sẽ khám phá ra rằng đó là điều không thể tránh khỏi: Ta sẽ luôn bỏ lỡ điều gì đó quan trọng vào bất cứ thời điểm nào khi ta ngừng sử dụng thứ gì đó.
Có những khoảnh khắc kỳ diệu trên Facebook ta sẽ bỏ lỡ khi đặt điện thoại xuống sau 6 tiếng lướt liên tục (ví dụ như một người bạn cũ đang đến thăm thành phố mình ở ngay lúc này)
Có những khoảnh khắc kỳ diệu ta sẽ bỏ lỡ trên Tinder (ví dụ như một người tình lãng mạn trong mơ) khi không vuốt qua ghép cặp thứ 700.
Có những cú điện thoại khẩn cấp ta sẽ bỏ lỡ nếu ta không kết nối 24/7.
Nhưng sống từng giây phút trong nỗi sợ hãi không phải là cuộc đời mà ta đáng lẽ nên sống.
Và thật kỳ diệu là, ngay khi buông bỏ được nỗi sợ đó, chúng ta sẽ thức tỉnh khỏi ảo tưởng. Khi ta rút phích cắm nhiều hơn 1 ngày, huỷ đăng ký khỏi những thông báo, hay đi tham dự một trại hè - những lo lắng ta nghĩ mình sẽ có, cuối cùng lại chẳng làm phiền chúng ta.
Chúng ta không thể bỏ lỡ những thứ mình không thấy.
Suy nghĩ rằng, “nhỡ như tôi bỏ lỡ điều gì quan trọng?” được tạo ra trước khi rút phích điện, huỷ đăng ký, hay tắt thiết bị - chứ không phải sau đó. Hãy tưởng tượng viễn cảnh tuyệt vời, nếu như các công ty công nghệ nhận ra, và hỗ trợ giúp ta điều hoà các mối quan hệ với bạn bè, công việc kinh doanh theo các tiêu chuẩn mà chúng ta định nghĩa về “thời gian được sử dụng hiệu quả" (“time well spent") cho cuộc đời mình, thay vì dựa trên những gì ta có thể bỏ lỡ.
Mánh cướp #4: Sự công nhận của xã hội
Chúng ta đều nhạy cảm trước sự công nhận của xã hội. Nhu cầu được thuộc về, được chấp nhận hay được trân trọng bởi tập thể là một trong số những động lực cao nhất của con người. Nhưng giờ thì sự công nhận xã hội của chúng ta đang nằm trong tay của các công ty công nghệ.

Khi tôi được bạn mình là Marc gắn thẻ (tag) vào một tấm ảnh, tôi tưởng rằng anh ta đang làm điều đó một cách có ý thức. Nhưng tôi không thấy được cách một công ty như Facebook đang điều khiển hành động của anh ta từ ban đầu như thế nào.
Facebook, Instagram hay SnapChat có thể thao túng tần suất người ta được tag vào các bức ảnh thường xuyên như thế nào bằng cách tự động đề xuất tất cả những khuôn mặt mà người ta nên tag (ví dụ bằng cách đưa ra một hộp chọn với xác nhận trong 1 cú click, “Tag Tristan trong bức ảnh này nhé?”)

Vì vậy khi Marc tag tôi, anh ta thực ra chỉ phản ứng lại đề xuất của Facebook, chứ không phải một lựa chọn độc lập. Nhưng thông qua những lựa chọn thiết kế như thế này, Facebook kiểm soát theo cấp số nhân trải nghiệm sự công nhận xã hội của hàng triệu người.
Cũng y như vậy khi ta thay đổi ảnh đại diện chính - Facebook biết rằng đó là một khoảnh khắc khi chúng ta đang nhạy cảm trước sự công nhận của xã hội: “Bạn bè tôi sẽ nghĩ thế nào về tấm hình mới của tôi?” Facebook có thể đưa điều này lên thứ tự cao hơn trên newsfeed, để nó có thể ở đó lâu hơn và nhiều người bạn sẽ like/comment hơn. Mỗi lần có người like hoặc comment trên bức ảnh, chúng ta bị kéo trở lại Facebook.
Mọi người bẩm sinh đều phản ứng lại sự chấp nhận xã hội, nhưng một số nhóm người (như lứa tuổi teen) thì dễ thương tổn hơn so với các những nhóm khác. Vì vậy, điều rất quan trọng là ta cần nhận ra quyền lực của những nhà thiết kế sản phẩm khi họ khai thác điểm yếu này.
Mánh cướp #5: Có qua có lại
Bạn giúp tôi một lần — tôi nợ bạn một lần
Bạn nói "cảm ơn"— tôi phải nói "không có gì."
Bạn gửi cho tôi một lá thư điện tử — thật thô lỗ khi tôi không trả lời
Bạn theo dõi tôi — thật bất lịch sự không theo dõi lại bạn (đặc biệt với nhóm tuổi thiếu niên)
Chúng ta nhạy cảm với nhu cầu phải đáp lại một cử chỉ của người khác. Cũng tương tự Sự công nhận xã hội, các công ty công nghệ thao túng tần suất trải nghiệm này của chúng ta.
Trong một vài trường hợp, đó là ngẫu nhiên. Email, tin nhắn điện thoại, tin nhắn online,... đơn thuần là các kênh giao tiếp xã hội qua lại. Nhưng ở một vài trường hợp khác, các công ty đã cố tình khai thác điểm yếu này.
LinkedIn là một tội đồ rõ ràng nhất. LinkedIn muốn người dùng tạo nên nhiều nghĩa vụ xã hội nhất có thể. Theo đó, mỗi lần người dùng tương tác qua lại (bằng cách chấp nhận kết nối, trả lời tin nhắn, hay chứng thực kỹ năng của một ai đó), họ phải vào trang LinkedIn.com và dành nhiều thời gian hơn nữa cho nền tảng này.
Tương tự Facebook, LinkedIn khai thác điểm bất đối xứng trong nhận thức. Khi bạn nhận một lời mời kết nối từ ai đó, bạn tưởng tượng rằng người đó đang hành động một cách có ý thức, trong khi thực tế, họ đáp trả một cách gần như vô thức theo danh sách liên lạc được đề nghị từ LinkedIn. Nói cách khác, LinkedIn biến những hành động bộc phát vô thức của bạn (khi "thêm" (add) ai đó) thành những nghĩa vụ xã hội mà hàng triệu con người đang cảm thấy họ cần đáp trả. Và LinkedIn là người hưởng lợi từ thời gian và tiền bạc mà chúng ta chi trả cho những nghĩa vụ xã hội này.

Thử tưởng tượng hàng triệu con người bị làm gián đoạn như thế này trong suốt một ngày của họ, chạy lòng vòng như những con gà không đầu, đối qua đáp lại với người khác - tất cả được thiết kế bởi các công ty thu lợi từ nó.
Chào mừng đến với mạng xã hội.
Thử tưởng tượng nếu các công ty công nghệ có một trách nhiệm giảm thiểu sự tương tác xã hội qua lại, hay nếu họ là một tổ chức độc lập đại diện cho lợi ích cộng đồng - một hiệp đoàn công nghiệp nào đó - đứng ra kiểm soát những công ty đã lợi dụng những thiên kiến này?
Mánh cướp #6: Những cái tô không đáy, nguồn cấp vô tận và tự động phát
Một cách khác để lừa mọi người đó là giữ cho họ tiếp tục tiêu thụ mọi thứ, kể cả khi họ không đói.
Bằng cách nào? Dễ ợt. Tạo ra một trải nghiệm có giới hạn, và dần biến nó thành một dòng chảy không đáy vượt ra khỏi giới hạn đó.
Giáo sư tại Cornell, Brian Wansink đã chứng minh trong nghiên cứu của ông rằng một người có thể lừa gạt người khác tiếp tục ăn súp bằng cách cho họ một cái tô không đáy có thể tự động làm đầy trong khi họ ăn. Với những chiếc tô không đáy, mọi người tiêu thụ nhiều hơn đến 73% lượng calo và có thể lên tới số thực là 140 calo.
Các công ty công nghệ khám phá ra nguyên tắc tương tự. Những bữa ăn thông tin được thiết kế có mục đích là để làm đầy lại một cách tự động kèm những lý do giữ bạn cuộn màn hình, và loại bỏ đi những lý do khiến bạn dừng, xem xét lại hay rời đi.
Đó cũng là nguyên nhân vì sao các trang mạng xã hội và video như Netflix, Youtube hay Facebook tự động trình phát video tiếp theo sau một vài giây đếm ngược thay vì đợi cho bạn quyết định một cách tỉnh thức (trừ khi bạn sẽ không làm thế). Một tỉ lệ lớn của lượt truy cập trên các website này được điều khiển bằng việc tự động trình phát nội dung tiếp theo.

Các công ty công nghệ thường bào chữa rằng "chúng tôi chỉ đang giúp mọi người dễ dàng tìm thấy video họ muốn xem hơn" trong khi thực tế là các công ty này chỉ đang quan tâm tới nhu cầu kinh doanh của họ. Và bạn không thể đổ lỗi cho họ, vì việc gia tăng "thời gian sử dụng" là thứ tiền tệ mà họ tranh giành lấy.
Mánh cướp #7: Sự gián đoạn ngay tức thì với thông báo “tôn trọng”
Các công ty biết rằng các tin nhắn làm gián đoạn người dùng ngay lập tức sẽ thôi thúc mọi người phản hồi nhiều hơn là các tin nhắn kiểu “để xem sau” như email.
Vì thế, tin nhắn của Facebook (hay Whatsapp, Wechat hay Snapchat) sẽ thiết kế để gây gián đoạn người dùng ngay lập tức (như một box chat nhảy ra khi có tin nhắn mới) thay vì giúp cho người dùng tôn trọng sự chú tâm của nhau.
Nói cách khác, càng quấy rầy bạn bằng sự gián đoạn, họ càng làm ra nhiều tiền hơn.
Bên cạnh đó, công ty công nghệ cũng thu lợi từ việc nhấn mạnh vào sự khẩn cấp và nhu cầu có qua có lại trong giao tiếp xã hội của người dùng. Ví dụ: Facebook tự động báo cho chúng ta biết khi nào thì tin nhắn của mình đã được đối phương xem. Bằng cách hiển thị trạng thái "Đã xem" (Seen), Facebook đẩy chúng ta vào tình huống: "Bây giờ bạn đã biết tôi đọc tin nhắn rồi. Tôi càng có nghĩa vụ phải trả lời nó ngay!”
Trái lại, Apple tỏ ra tôn trọng người dùng hơn. Họ trao cho người dùng quyền tắt - bật chế độ “đã xem” tin nhắn.
Vấn đề là, việc làm ăn dựa trên tối đa hoá sự gián đoạn đã tạo nên thực trạng chung đáng buồn: phá hủy khả năng tập trung trên quy mô toàn cầu và gây ra hàng tỉ các sự gián đoạn không cần thiết mỗi ngày. Đó là một vấn đề chúng ta cần sửa chữa với một tiêu chuẩn thiết kế chung.
Mánh cướp #8: Khiến người dùng phải "đi đường vòng" để đạt được mục đích
Một cách khác để các ứng dụng thao túng người dùng đó là: họ xác định lý do bạn truy cập ứng dụng (thực hiện một tác vụ nào đó), và làm cho chúng không thể tách rời với hoạt động kiếm tiền của ứng dụng.
Ví dụ: Trong đời thực, ở các cửa hàng tiện lợi, lý do phổ biến nhất khi khách hàng ghé tiệm là mua sữa và thuốc. Cửa hàng muốn tối đa hoá số lượng hàng mỗi vị khách tới mua. Vì vậy họ đặt quầy dược phẩm và sữa ở phía cuối.
Theo đó, họ khiến thứ mà khách hàng mong muốn (sữa, thuốc), không thể tách rời với những mong muốn kinh tế của họ (bán các loại hàng hoá khác). Nếu cửa hàng thực sự được thiết kế để hỗ trợ người mua, thì những mặt hàng phổ biến nhất phải được đặt lên quầy đầu tiên!
Các công ty công nghệ thiết kế website của họ theo hướng tương tự. Ví dụ, khi bạn muốn tìm kiếm một sự kiện trên Facebook xảy ra vào đêm nay (đó là lý do của bạn), Facebook sẽ không cho phép bạn truy cập nó nếu không truy cập vào mục news feed (lý do của họ). Facebook muốn chuyển đổi mỗi lý do của bạn có khi dùng nó thành lý do của họ nhằm tối đa hóa thời gian bạn nội dung trong đó.
Trong thế giới “lý tưởng”, các ứng dụng sẽ luôn cung cấp một cách thức trực tiếp để bạn đạt được thứ mình muốn, một cách tách biệt với mục đích riêng của họ.
Mánh cướp #9: Những lựa chọn bất tiện.
Họ bảo rằng bạn luôn có quyền lựa chọn.
"Nếu bạn không thích cái này bạn có thể sử dụng sản phẩm khác."
"Nếu bạn không thích cái này, bạn có thể không đăng ký."
"Nếu bạn không quan tâm ứng dụng của chúng tôi, bạn có thể ngừng cài đặt nó trên điện thoại của bạn."
Như một lẽ tất nhiên, các nhà kinh doanh muốn tạo ra môi trường nơi những lựa chọn mà họ muốn bạn thực hiện thì dễ dàng cho bạn, và những lựa chọn mà họ không muốn thì khó khăn hơn. Đó cũng chính là điều các ảo thuật gia làm. Khán giả rất dễ thấy điều ảo thuật gia muốn bạn thấy và ngược lại.
Ví dụ như, NYTimes.com cho bạn “tự do lựa chọn” huỷ đăng ký theo dõi tin tức từ trang. Nhưng thay vì chỉ cần nhấn nút "hủy đăng kí", họ gửi bạn một email với thông tin làm thế nào để hủy tài khoản của bạn bằng việc gọi một cuộc điện thoại tới hotline chỉ hoạt động trong những thời gian nhất định.

Thay vì chỉ xem xét mọi thứ như những lựa chọn sẵn có, chúng ta cần cân nhắc thêm cả về công sức cần thiết phải bỏ ra cho lựa chọn mà mình muốn.
Mánh cướp #10: Chiến thuật mời chào "đặt chân lên cửa"
Cuối cùng thì, con người thường không có khả năng dự báo hậu quả một lần nhấp chuột của mình. Và các ứng dụng đang khai thác điều đó.
Giống như dân bán hàng sử dụng kĩ thuật "đặt chân lên cửa" bằng cách đưa ra một yêu cầu nhỏ, tưởng chừng vô hại để bắt đầu. ("một click duy nhất để xem các thông báo mới nhất của bạn") và leo thang từ đây ("tại sao chúng ta không nán lại thêm chút nữa nhỉ?"). Hầu hết các trang web đều thu hút người dùng bằng thủ thuật này.
Thử tưởng tượng nếu các trình duyệt web và điện thoại thông minh, các cổng thông tin đang thực sự quan tâm tới người dùng và giúp người dùng dự báo về những hệ quả của các cú nhấp chuột (dựa trên những dữ liệu thực về những lợi ích và chi phí nào mà họ thật sự có).
Đó là lý do vì sao tôi thêm "thời gian đọc ước chừng" vào phần đầu các bài viết của tôi. Khi bạn đặt "cái giá thật sự" của một sự lựa chọn trước mọi người, bạn đang đối xử với người dùng hay là khán giả bằng sự tôn trọng. Trong một thế giới lý tưởng các lựa chọn sẽ được đưa ra kèm “cái giá thực sự phải trả” và lợi ích dự kiến, từ đó người dùng có quyền đưa ra các lựa chọn với đầy đủ thông tin hơn.

Lời kết luận và những gì chúng ta có thể làm để khắc phục?
Bạn có thất vọng khi công nghệ nhận ra công nghệ đang thao túng mình nhiều như thế nào? Tôi cũng thế! Những gì tôi liệt kê phía trên chỉ là một vài, trong hàng ngàn các yếu tố kỹ thuật. Hãy thử tưởng tượng tới những chồng sách cao, những buổi hội thảo, đào tạo được tổ chức để dạy lại cho các doanh nghiệp công nghệ đầy tham vọng các kĩ thuật như vậy. Thử tưởng tượng hàng trăm kỹ sư với công việc hàng ngày chỉ là phát minh ra cách mới nhằm thu hút sự chú ý của bạn.
Sự tự do tối thượng là sự tự do lý trí, và chúng ta cần công nghệ ở bên để giúp chúng ta sống, cảm nhận, suy nghĩ và hành động một cách tự do.
Chúng ta cần điện thoại thông minh, màn hình thông báo và trình duyệt web để được là khung xương cho lý trí và những mối quan hệ cá nhân đến từ giá trị sâu sắc của chúng ta, chứ không phải đến từ các hành động bộc phát. Thời gian của con người là quý giá. Và chúng ta nên bảo vệ nó với sự nghiêm ngặt tương tự các quyền riêng tư và quyền khác trên không gian kỹ thuật số.
Tristan Harris là một đạo đức gia tại Google cho đến 2016, nơi mà anh được học cách công nghệ tái cấu trúc sự chú ý, hạnh phúc và cách hành xử của 2 tỉ người. Để biết thêm nguồn thông tin về "thời gian sử dụng tối ưu" và trung tâm cho công nghệ dựa trên con người, truy cập trang http://humanetech.com.
"Những người đã từng truyền cảm hứng cho suy nghĩ của tôi qua nhiều năm bao gồm Joe Edelman, Aza Raskin, Raph D’Amico, Shaun Martin, Jonathan Harris và Damon Horowitz.
Suy nghĩ của tôi về các menu và tạo ra các lựa chọn được bén rễ sâu sắc trong công việc của Joe Edelman về các giá trị và lựa chọn của con người."
Comments